Y tế từ xa là gì? Các công bố khoa học về Y tế từ xa
Y tế từ xa là một phương pháp cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ xa thông qua các công nghệ thông tin và truyền thông. Phương pháp này cho phép bệnh nhân và ...
Y tế từ xa là một phương pháp cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ xa thông qua các công nghệ thông tin và truyền thông. Phương pháp này cho phép bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ y tế giao tiếp, chẩn đoán, điều trị và theo dõi sức khỏe từ xa, bất kể khoảng cách vị trí địa lí. Y tế từ xa có thể sử dụng các công nghệ như điện thoại di động, video hội nghị trực tuyến, mạng Internet và các thiết bị y tế điện tử để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Điều này giúp giảm thời gian và chi phí cho bệnh nhân, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và cải thiện chất lượng chăm sóc.
Y tế từ xa là một phương pháp cung cấp dịch vụ y tế thông qua sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Nó cho phép bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ y tế giao tiếp và tương tác từ xa, mà không cần đến viện bệnh hoặc phòng khám truyền thống.
Các công nghệ thông tin và truyền thông được sử dụng trong y tế từ xa bao gồm điện thoại di động, máy tính, video trực tuyến, ứng dụng di động, thiết bị đo lường sức khỏe và các thiết bị y tế điện tử. Bằng cách sử dụng các công nghệ này, bệnh nhân có thể tiếp cận các dịch vụ y tế như tư vấn y khoa, chẩn đoán, điều trị và theo dõi sức khỏe từ xa.
Có một số dạng y tế từ xa, bao gồm:
1. Tư vấn y tế từ xa: Bệnh nhân có thể tham gia cuộc trò chuyện hoặc cuộc hội thoại trực tuyến với nhà cung cấp dịch vụ y tế để nhận tư vấn và đánh giá sức khỏe của mình.
2. Chẩn đoán từ xa: Thiết bị y tế điện tử và phần mềm được sử dụng để thu thập thông tin sức khỏe của bệnh nhân (như huyết áp, mức đường trong máu, EKG,...) và chuyển tiếp đến nhà cung cấp dịch vụ y tế để chẩn đoán và đưa ra kế hoạch điều trị.
3. Điều trị từ xa: Bệnh nhân có thể nhận được điều trị từ xa, bao gồm kê đơn thuốc, thay đổi liều lượng thuốc và nhận các chỉ dẫn y tế từ nhà cung cấp dịch vụ y tế thông qua các ứng dụng di động hoặc các kênh truyền tải trực tuyến.
4. Theo dõi từ xa: Bệnh nhân có thể theo dõi tình trạng sức khỏe của mình thông qua việc đo lường các chỉ số sức khỏe như nhịp tim, áp lực máu và mức đường trong máu. Dữ liệu này sau đó được chuyển đến nhà cung cấp dịch vụ y tế để theo dõi và cung cấp phản hồi tại khoảng cách.
Y tế từ xa mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân, bao gồm tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại, tiếp cận dịch vụ y tế dễ dàng hơn và tăng cường sự tiện lợi. Nó cũng giúp giảm tải cho hệ thống y tế truyền thống và cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "y tế từ xa":
Một phương pháp ước tính hàm lượng cholesterol trong phần lipoprotein có tỷ trọng thấp của huyết thanh (Sf0-20) được trình bày. Phương pháp này bao gồm các phép đo nồng độ cholesterol toàn phần trong huyết tương khi đói, triglyceride và cholesterol lipoprotein có tỷ trọng cao, không yêu cầu sử dụng thiết bị siêu ly tâm chuẩn bị. So sánh quy trình được đề xuất này với quy trình trực tiếp hơn, trong đó thiết bị siêu ly tâm được sử dụng, đã cho thấy các hệ số tương quan từ 0,94 đến 0,99, tùy thuộc vào nhóm bệnh nhân được so sánh.
Protein là yếu tố thiết yếu của sự sống, và việc hiểu cấu trúc của chúng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu cơ chế hoạt động của chúng. Thông qua một nỗ lực thử nghiệm khổng lồ1–4, cấu trúc của khoảng 100.000 protein độc nhất đã được xác định5, nhưng điều này chỉ đại diện cho một phần nhỏ trong hàng tỷ chuỗi protein đã biết6,7. Phạm vi bao phủ cấu trúc đang bị thắt nút bởi thời gian từ vài tháng đến vài năm cần thiết để xác định cấu trúc của một protein đơn lẻ. Các phương pháp tính toán chính xác là cần thiết để giải quyết vấn đề này và cho phép tin học cấu trúc lớn. Việc dự đoán cấu trúc ba chiều mà một protein sẽ chấp nhận chỉ dựa trên chuỗi axit amin của nó - thành phần dự đoán cấu trúc của 'vấn đề gấp nếp protein'8 - đã là một vấn đề nghiên cứu mở quan trọng trong hơn 50 năm9. Dù đã có những tiến bộ gần đây10–14, các phương pháp hiện tại vẫn chưa đạt đến độ chính xác nguyên tử, đặc biệt khi không có cấu trúc tương đồng nào được biết đến. Tại đây, chúng tôi cung cấp phương pháp tính toán đầu tiên có khả năng dự đoán cấu trúc protein với độ chính xác nguyên tử ngay cả trong trường hợp không có cấu trúc tương tự nào được biết. Chúng tôi đã xác nhận một phiên bản thiết kế hoàn toàn mới của mô hình dựa trên mạng neuron, AlphaFold, trong cuộc thi Đánh giá Cấu trúc Protein Phê bình lần thứ 14 (CASP14)15, cho thấy độ chính xác có thể cạnh tranh với các cấu trúc thử nghiệm trong phần lớn các trường hợp và vượt trội hơn các phương pháp khác đáng kể. Cơ sở của phiên bản mới nhất của AlphaFold là cách tiếp cận học máy mới kết hợp kiến thức vật lý và sinh học về cấu trúc protein, tận dụng các sắp xếp nhiều chuỗi, vào thiết kế của thuật toán học sâu.
Việc phát hiện quang học và phân tích quang phổ của các phân tử đơn lẻ và các hạt nano đơn đã được thực hiện ở nhiệt độ phòng thông qua việc sử dụng tán xạ Raman cường cường độ bề mặt. Các hạt nano colloidal bạc đơn lẻ đã được sàng lọc từ một quần thể lớn không đồng nhất dựa trên các đặc tính phụ thuộc kích thước đặc biệt và sau đó được sử dụng để khuếch đại các dấu hiệu quang phổ của các phân tử hấp phụ. Đối với các phân tử đơn lẻ rhodamine 6G hấp phụ trên các hạt nano đã chọn, các hệ số khuếch đại Raman nội tại đạt mức từ 1014 đến 1015, lớn hơn nhiều so với các giá trị trung bình của quần thể thu được từ các phép đo thông thường. Sự khuếch đại to lớn này dẫn tới các tín hiệu dao động Raman có cường độ mạnh hơn và ổn định hơn so với huỳnh quang của phân tử đơn.
Một phương pháp enzym học được mô tả để xác định tổng hàm lượng cholesterol trong huyết thanh bằng việc sử dụng một thuốc thử dung dịch duy nhất. Phương pháp này không yêu cầu xử lý mẫu trước và đường chuẩn hiệu chuẩn tuyến tính đến 600 mg/dl. Este cholesterol được thủy phân thành cholesterol tự do nhờ cholesterol ester hydrolase (EC 3.1.1.13). Cholesterol tự do sinh ra được oxy hóa bởi cholesterol oxidase thành cholest-4-en-3-one đồng thời sản sinh hydrogen peroxide, chất này phối hợp oxy hóa với 4-aminoantipyrine và phenol dưới sự hiện diện của peroxidase tạo thành một chất cromogen có hấp thu tối đa ở bước sóng 500 nm. Phương pháp này có thể tái thực hiện được và các kết quả tương quan tốt với những kết quả thu được bằng các quy trình tự động của Liebermann—Burchard (AA-2 và SMA 12/60) và phương pháp của Abell et al. Phương pháp hiện tại mang lại tính đặc hiệu tốt hơn so với các phương pháp trước đây và có độ chính xác vượt trội.
Mặc dù đã có hơn một thế kỷ nghiên cứu, bệnh lao vẫn là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do nhiễm trùng trên toàn cầu. Trước tình trạng gia tăng tỷ lệ kháng thuốc, việc xác định các gen cần thiết cho sự phát triển của vi sinh vật này sẽ cung cấp các mục tiêu mới cho việc thiết kế các tác nhân kháng mycobacterium. Ở đây, chúng tôi mô tả việc sử dụng phương pháp lai ghép vị trí transposon (TraSH) để xác định một cách toàn diện các gen cần thiết cho tác nhân gây bệnh,
Carbapenemase là các β-lactamase có khả năng thủy phân đa dạng. Chúng có khả năng thủy phân penicillin, cephalosporin, monobactam và carbapenem. Vi khuẩn sản sinh các β-lactamase này có thể gây ra những nhiễm trùng nghiêm trọng, trong đó hoạt tính carbapenemase làm cho nhiều loại β-lactam trở nên không hiệu quả. Carbapenemase thuộc các nhóm β-lactamase phân tử A, B, và D. Các enzyme nhóm A và D có cơ chế thủy phân dựa trên serine, trong khi enzyme nhóm B là metallo-β-lactamase có chứa kẽm tại vị trí hoạt động. Nhóm carbapenemase loại A gồm các thành viên thuộc các họ SME, IMI, NMC, GES và KPC. Trong số này, carbapenemase KPC là phổ biến nhất, thường tìm thấy trên plasmid trong
So sánh hiệu quả và tính an toàn của việc sử dụng kết hợp adalimumab cộng methotrexat (MTX) so với đơn trị liệu MTX hoặc đơn trị liệu adalimumab ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (RA) sớm, tiến triển mạnh chưa từng điều trị bằng MTX trước đây.
Đây là một nghiên cứu kéo dài 2 năm, đa trung tâm, mù đôi, có đối chứng so sánh hoạt tính, bao gồm 799 bệnh nhân RA có bệnh hoạt động trong vòng <3 năm chưa từng được điều trị bằng MTX. Phương án điều trị bao gồm adalimumab 40 mg tiêm dưới da mỗi tuần cách tuần cộng MTX uống, adalimumab 40 mg tiêm dưới da mỗi tuần cách tuần, hoặc MTX uống mỗi tuần. Các chỉ số chính tại năm thứ 1 là cải thiện 50% theo tiêu chuẩn của Hiệp hội Các Bác sĩ Thấp khớp Hoa Kỳ (ACR50) và sự thay đổi trung bình từ giá trị ban đầu trong chỉ số Sharp tổng hợp đã được biến đổi.
Điều trị kết hợp vượt trội so với cả MTX và đơn trị liệu adalimumab trong tất cả các kết quả được đo lường. Tại năm thứ 1, nhiều bệnh nhân nhận được điều trị kết hợp thể hiện đáp ứng ACR50 (62%) hơn so với những bệnh nhân tiếp nhận đơn trị liệu MTX hoặc adalimumab (lần lượt là 46% và 41%; cả
Trong nghiên cứu với dân số bệnh nhân RA sớm, tiến triển mạnh này, liệu pháp kết hợp với adalimumab cộng MTX đã được chứng minh là vượt trội rõ rệt so với đơn trị liệu MTX hoặc adalimumab trong việc cải thiện dấu hiệu và triệu chứng của bệnh, ngăn chặn tiến triển xơ hóa khớp, và đạt được sự thuyên giảm lâm sàng.
Đánh giá hiệu quả và độ an toàn của adalimumab (D2E7), một kháng thể đơn dòng kháng yếu tố hoại tử khối u α có nguồn gốc hoàn toàn từ người, kết hợp với methotrexate (MTX) ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (RA) tiến triển mặc dù đã được điều trị bằng MTX.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược suốt 24 tuần, 271 bệnh nhân RA tiến triển được phân ngẫu nhiên nhận tiêm adalimumab (20 mg, 40 mg, hoặc 80 mg dưới da) hoặc giả dược mỗi tuần một lần, đồng thời tiếp tục sử dụng liều MTX ổn định lâu dài. Điểm cuối hiệu quả chính là tiêu chí cải thiện 20% theo tiêu chuẩn của Hội thấp khớp học Hoa Kỳ (ACR20) sau 24 tuần.
Tỷ lệ đáp ứng ACR20 ở tuần thứ 24 đạt được ở một tỷ lệ lớn hơn đáng kể số bệnh nhân trong nhóm 20 mg, 40 mg và 80 mg adalimumab cộng với MTX (47,8%, 67,2% và 65,8% tương ứng) so với nhóm giả dược cộng với MTX (14,5%) (
Bổ sung adalimumab với liều 20 mg, 40 mg hoặc 80 mg tiêm dưới da mỗi tuần một lần kết hợp với liệu pháp MTX lâu dài ở bệnh nhân RA tiến triển đã cung cấp sự cải thiện đáng kể, nhanh chóng và lâu dài trong hoạt động của bệnh sau 24 tuần so với MTX cộng giả dược.
Chương trình phôi thai ‘chuyển tiếp biểu mô – trung mô’ (EMT) được cho là thúc đẩy sự tiến triển của khối u ác tính. Chất ức chế phiên mã zinc-finger E-box binding homeobox 1 (ZEB1) là một chất xúc tác quan trọng cho EMT trong nhiều loại khối u ở người và gần đây đã được chứng minh là thúc đẩy sự xâm lấn và di căn của các tế bào khối u. Ở đây, chúng tôi báo cáo rằng ZEB1 ức chế trực tiếp sự phiên mã của các thành viên trong họ microRNA-200 gồm miR-141 và miR-200c, mà mạnh mẽ kích hoạt sự phân hóa biểu mô ở các tế bào ung thư tụy, đại trực tràng và vú. Đáng lưu ý, các chất kích hoạt EMT như yếu tố tăng trưởng chuyển đổi β2 và ZEB1 là những mục tiêu chính bị giảm biểu hiện bởi các microRNA này. Những kết quả này chỉ ra rằng ZEB1 kích hoạt một vòng lặp cho ăn qua trung gian microRNA, điều này ổn định EMT và thúc đẩy sự xâm lấn của tế bào ung thư. Ngược lại, tùy thuộc vào yếu tố kích thích từ môi trường, vòng lặp này có thể chuyển đổi và kích hoạt sự phân hóa biểu mô, do đó giải thích sự không đồng nhất mạnh mẽ trong khối u được quan sát ở nhiều loại ung thư ở người.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10